Điểm tin

Các nước ASEAN học hỏi kinh nghiệm của Việt Nam trong thu hút FDI

21 tháng 10. 2020

Từ mỗi cuộc khủng hoảng đều có thể rút ra một bài học và đại dịch Covid-19 - một cuộc khủng hoảng toàn cầu chưa từng có trong lịch sử - chắc chắn có nhiều bài học kinh nghiệm. Nhưng từ góc độ kinh tế, có thể thấy rằng những nước có nền tảng kinh tế mạnh nhất có cơ hội tốt nhất để thoát khỏi khủng hoảng một cách nguyên vẹn. Rất ít quốc gia trong ASEAN có thể tuyên bố sức mạnh kinh tế như Singapore.

Tuy nhiên, Việt Nam đang được các chuyên gia kinh tế và các tổ chức quốc tế nhận định là đặt nền tảng vững chắc cho sự phát triển. Việt Nam đã trở thành trung tâm đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong thập kỷ qua, chứng kiến ​​tốc độ tăng trưởng kép hàng năm ổn định là 10,4% từ năm 2013 đến mức cao kỷ lục của năm ngoái là 16,12 tỷ USD - tăng 81% nói chung. So với Singapore, ghi nhận mức tăng 63% so với cùng kỳ sáu năm, trong khi Thái Lan và Malaysia thực sự suy giảm dòng vốn FDI. Trong khu vực ASEAN, chỉ có Philippines là có tỷ lệ tăng vốn FDI nhiều hơn Việt Nam là 104%, mặc dù mức tăng này từ mức thấp hơn là 3,7 tỷ USD vào năm 2013.

FDI là một nguồn tài chính tư nhân bên ngoài quan trọng cho các nước đang phát triển và đóng góp đáng kể vào sự phát triển lâu dài của nền kinh tế. FDI được thúc đẩy phần lớn bởi triển vọng dài hạn của các nhà đầu tư nước ngoài trong việc tạo ra lợi nhuận trong các hoạt động sản xuất mà họ có quyền kiểm soát trực tiếp, thường là thông qua liên doanh với các công ty địa phương có trụ sở tại các quốc gia liên quan. Kết quả của mối quan hệ kinh tế xuyên biên giới này bao gồm cơ hội đào tạo kỹ thuật, tiến bộ công nghệ, cải thiện triển vọng việc làm, tài chính công tốt hơn và cải thiện tiềm năng xuất khẩu. Cả thành công kinh tế của Singapore và sự tăng trưởng bùng nổ của Trung Quốc trong vài thập kỷ qua có thể ít nhất một phần nhờ vào nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), Singapore chứng kiến ​​dòng vốn đầu tư tăng hai con số mỗi năm kể từ cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997.

Trong khi đó, Trung Quốc chứng kiến FDI tăng vọt từ khoảng 11,15 tỷ USD năm 1992 lên mức cao nhất là 290 tỷ USD năm 2013, sau đó xu hướng bắt đầu thay đổi khi chi phí lao động ngày càng tăng khiến các nhà đầu tư quốc tế bắt đầu tìm kiếm nơi khác. Nhu cầu về chiến lược “Trung Quốc cộng một” trở nên rõ ràng hơn vào năm 2015 với việc Bắc Kinh công bố chiến lược “Made in China (sản xuất tại Trung Quốc 2025)” để nâng cấp ngành sản xuất trong nước, trong khi căng thẳng thương mại Mỹ - Trung leo thang dường như đã khiến nhiều nhà đầu tư nước ngoài phải thúc đẩy làn sóng này. Đó là khi câu chuyện Việt Nam trở nên nổi bật.

Sự gia tăng mạnh mẽ của FDI vào Việt Nam từ năm 2013 trở lại đây đồng thời với việc dòng chảy vào Trung Quốc giảm. Một công ty đóng góp lớn là Samsung, được cho là đã đầu tư khoảng 17 tỷ USD vào Việt Nam kể từ năm 2008. Việc Hà Nội chủ động thực hiện các chính sách đầu tư thân thiện với doanh nghiệp và các khu công nghiệp, cũng như nguồn cung lao động trẻ dồi dào, đã giúp thu hút FDI từ các quốc gia khác cũng vậy, với Nhật Bản là một trong những nhà đầu tư mới vào ngành năng lượng lớn của Việt Nam.

Tuy nhiên, việc thu hút FDI không phải lúc nào cũng dễ dàng. Khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) vào năm 2007, Việt Nam ban đầu cũng theo cách tiếp cận tương tự được một số nước láng giềng áp dụng và khuyến khích các doanh nghiệp nhà nước cạnh tranh với các nhà đầu tư nước ngoài. Cạnh tranh về FDI trong ASEAN sẽ tiếp tục và mặc dù một số người có thể cho rằng vị trí địa lý gần Trung Quốc, cũng như lực lượng lao động trẻ 95 triệu người của Việt Nam đã tạo thêm lợi thế cho Việt Nam, nhưng không thể đánh giá thấp sức hấp dẫn của một môi trường chính trị ổn định. Thái Lan, Philippines, Malaysia và Indonesia đều đã trải qua những biến động và bất ổn chính trị trong những năm gần đây và sẽ rất tốt khi nhìn vào Việt Nam để hiểu tầm quan trọng của sự ổn định trong nước. Các nhà đầu tư cũng chú ý đến tỷ lệ lạm phát, muốn tỷ giá hối đoái ổn định và cải cách thủ tục hành chính thông qua thực hiện thuế điện tử và các dịch vụ hải quan điện tử.

Trong hơn một thập kỷ qua, Việt Nam đã chuyển từ tập trung vào sản xuất sử dụng nhiều lao động sang các quy trình tự động hóa hơn và hiện đang bước vào giai đoạn tiếp theo. Các nhà đầu tư đang rất chờ đợi việc công bố dự thảo chiến lược FDI của Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong 10 năm tới, dự kiến ​​sẽ ưu tiên các dự án công nghệ cao, giá trị cao và thân thiện với môi trường. Những khó khăn mà Việt Nam đã thực hiện để đạt được dòng vốn FDI này là không đơn giản. Các biện pháp mạnh mẽ và táo bạo như thiết lập sự minh bạch trong các quy trình kinh doanh và quản trị, và bắt buộc các doanh nghiệp nhà nước hoạt động trong các lĩnh vực không cạnh tranh, đòi hỏi ý chí và cam kết chính trị thực sự.

Mặc dù các nước láng giềng có thể không đánh giá cao một số bước đi này, nhưng các chính phủ ở ASEAN như Malaysia, Indonesia, Thái Lan và Philippines thực sự cần có sự thay đổi để học hỏi kinh nghiệm của Việt Nam trong đi đầu về thu hút FDI.

Nguồn: Báo Công Thương

Chia sẻ bài viết qua mạng xã hội: