Điểm tin

ASEAN ứng phó ra sao với hàng giá rẻ Trung Quốc?

10 tháng 03. 2025

Theo nhiều chuyên gia, ASEAN cần đẩy nhanh nỗ lực cân bằng giữa sự gia tăng xuất khẩu của Trung Quốc với việc giảm rủi ro toàn cầu.

Sự gia tăng đột biến trong xuất khẩu đã đẩy thặng dư thương mại của Trung Quốc lên gần 1 nghìn tỷ USD vào năm 2024, với ASEAN là điểm đến lớn nhất cho các lô hàng của Trung Quốc.

Nhiều mặt hàng xuất khẩu này là hàng hóa trung gian, qua đó hỗ trợ tăng trưởng xuất khẩu của chính ASEAN – với các lô hàng sang Mỹ vượt hơn 350 tỷ USD vào năm ngoái.

Nhưng khi chính quyền Trump cân nhắc các mức thuế quan đối xứng và thúc giục các đối tác thương mại hạn chế hàng nhập khẩu của Trung Quốc, ASEAN có nguy cơ mất quyền tiếp cận không hạn chế vào các thị trường phương Tây, đồng thời phải đối mặt với làn sóng hàng tiêu dùng từ Trung Quốc tràn vào, đe dọa các ngành công nghiệp và việc làm trong nước.

Theo Brendan Kelly, chuyên gia tại Trung tâm Phân tích Trung Quốc của Viện Chính sách Xã hội châu Á, mặc dù khu vực này vẫn được hưởng lợi từ sự thay đổi chuỗi cung ứng trong bối cảnh căng thẳng thương mại Mỹ-Trung, nhưng khối cũng đang đối mặt với áp lực ngày càng tăng từ một số xu hướng chính.

Chuyên gia này cũng chỉ ra rằng khi Trung Quốc chuyển hướng xuất khẩu từ các thị trường phát triển sang các thị trường mới nổi, xuất khẩu của nước này sang ASEAN đang tăng nhanh chóng, tăng thêm 12% vào năm 2024. Trong khi đó, xuất khẩu của ASEAN sang Trung Quốc đã giảm 3% kể từ năm 2022. Điều này đã góp phần làm gia tăng thâm hụt thương mại ASEAN-Trung Quốc.

Việc nhập khẩu hàng hóa giá trị thấp của Trung Quốc tăng vọt, bao gồm hàng dệt may và đồ nội thất, đã gây ra nhiều lo ngại vì chúng đã góp phần vào việc đóng cửa các nhà máy quy mô lớn và sa thải nhân viên ở Thái Lan và Indonesia.

Tình trạng dư thừa thép khổng lồ của Trung Quốc cũng là một thách thức lớn khác. ASEAN đã tiếp nhận gần 30% lượng thép xuất khẩu của Trung Quốc vào năm 2024, khiến nhiều quốc gia trong khu vực áp dụng thuế chống bán phá giá và xem xét các hành động thương mại tiếp theo.

Sản xuất và xuất khẩu hóa dầu, thế mạnh truyền thống của các nền kinh tế ASEAN, đang chịu áp lực khi đầu tư của Trung Quốc tăng nhanh đã tạo ra công suất dư thừa dự kiến ​​sẽ kéo dài trong nhiều năm.

Với việc ngành hóa chất chiếm khoảng 10% GDP ở Indonesia, 7% ở Malaysia và 5% ở Thái Lan, tình trạng dư thừa công suất này có thể gây ra hậu quả kinh tế lâu dài. Tương tự, ngành máy móc điện của ASEAN, lĩnh vực đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế công nghiệp của Thái Lan và Malaysia, cũng đang chịu áp lực từ hoạt động xuất khẩu đang mở rộng của Trung Quốc.

Tình trạng dư thừa công suất sản xuất chip bán dẫn cũ của Trung Quốc cũng được cho là một rủi ro khác đối với ASEAN. Ngành này chiếm khoảng 7% GDP của Singapore và 25% GDP của Malaysia (chủ yếu là trong công đoạn đóng gói và thử nghiệm), trong khi Thái Lan và Việt Nam đang theo đuổi các khoản đầu tư lớn vào sản xuất chất bán dẫn.

Tuy nhiên, khả năng cung vượt cầu từ Trung Quốc và các biện pháp hạn chế thương mại của phương Tây có thể làm gián đoạn các kế hoạch tăng trưởng này.

Ông Shay Wester, Giám đốc các vấn đề kinh tế Châu Á tại Viện Chính sách Xã hội Châu Á, cho rằng ASEAN đang trở thành một cơ sở sản xuất quan trọng ngoài lãnh thổ cho các công ty Trung Quốc, đặc biệt là trong các ngành công nghiệp năng lượng sạch. Khu vực này đang đóng vai trò như một phòng thí nghiệm để kiểm tra cách xu hướng tương đối mới này có thể phát triển trên toàn cầu.

Các chính phủ ASEAN hoàn toàn hiểu rõ và hoan nghênh đầu tư trực tiếp nước ngoài từ Trung Quốc, xem đây là yếu tố cần thiết để giành lợi thế cạnh tranh trong các ngành hướng tới tương lai, nơi các công ty Trung Quốc đang giữ vị trí dẫn đầu.

Tuy nhiên, ông Wester cho biết, khoản đầu tư này của Trung Quốc đã gặp phải nhiều vấn đề phát sinh. Tại Thái Lan, sự mở rộng của các nhà sản xuất xe điện Trung Quốc cũng đã thay thế các nhà sản xuất hiện có, ảnh hưởng tiêu cực đến việc làm.

Ít nhất một chục nhà cung cấp phụ tùng ô tô của Thái Lan đã đóng cửa vì các công ty Trung Quốc đã chọn chuỗi cung ứng của riêng họ, trái ngược với các nhà sản xuất ô tô truyền thống vốn gắn chặt hơn với chuỗi giá trị địa phương.

Việc ASEAN ngày càng hội nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị của Trung Quốc có nguy cơ khiến khối này mất quyền tiếp cận các nền kinh tế tiên tiến khi Mỹ và EU tăng cường giám sát hàng xuất khẩu từ các công ty Trung Quốc, hoặc được xử lý thông qua các nước thứ ba.

Một số công ty Trung Quốc đã mở rộng hoạt động sang ASEAN để tránh thuế quan của Mỹ. Nhưng vào năm 2024, Mỹ đã áp dụng thuế chống bán phá giá đối với các tấm pin mặt trời do các công ty Trung Quốc sản xuất tại ASEAN. Điều này báo trước có khả năng các biện pháp tương tự cũng sẽ được đưa ra trong thời gian tới.

EU cũng đã triển khai một số công cụ mới, bao gồm Quy định trợ cấp nước ngoài mở rộng có thể tác động đến các nhà xuất khẩu ASEAN gắn liền với chuỗi cung ứng của Trung Quốc. Trong khi đó, Nhật Bản đang xem xét các biện pháp chống bán phá giá rộng hơn để bao gồm hàng hóa chuyển hướng thông qua các nước thứ ba.

Ngay cả các thị trường mới nổi cũng đang thắt chặt chính sách. Brazil, Thổ Nhĩ Kỳ và Ấn Độ cởi mở hơn với xe điện Trung Quốc so với các nền kinh tế tiên tiến, nhưng họ đã thực hiện các biện pháp, bao gồm cả thuế quan, để khuyến khích các công ty Trung Quốc sản xuất tại địa phương. Ấn Độ đang tìm hiểu các quy định để giải quyết vấn đề hàng xuất khẩu của Trung Quốc đi qua ASEAN để tránh thuế.

Các nhà hoạch định chính sách ASEAN phải đối mặt với nhiệm vụ khó khăn là bảo vệ các ngành công nghiệp trong nước trong khi vẫn duy trì mối quan hệ kinh tế quan trọng với Trung Quốc. Việc đa dạng hóa chuỗi cung ứng khỏi sự phụ thuộc ngày càng tăng vào Trung Quốc sẽ rất quan trọng để giảm thiểu các tác động trước sức ép kinh tế của Trung Quốc và các nỗ lực giảm rủi ro của phương Tây.

Theo nhiều chuyên gia, ASEAN phải tăng cường các công cụ thương mại, phối hợp khu vực và tận dụng các khuôn khổ như Khu vực mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc để quản lý tình trạng nhập khẩu tăng đột biến và đàm phán các điều khoản thương mại công bằng hơn với Trung Quốc.

Đồng thời, với các nền kinh tế ASEAN phụ thuộc nhiều hơn vào việc xuất khẩu sang Mỹ, họ nên cân nhắc việc giảm thuế quan và các rào cản tiếp cận thị trường khác để giải quyết các mối quan ngại của Washington và tăng cường hơn nữa hợp tác kinh tế.

ASEAN không thể tự mình giải quyết những thách thức này. ASEAN nên hợp tác với Mỹ, EU, Nhật Bản và các nền kinh tế tiên tiến khác để giúp các nước thành viên. Ví dụ, xét đến vai trò quan trọng của ASEAN trong sản xuất chất bán dẫn, ASEAN nên hợp tác với G7 đối phó với tình trạng dư thừa năng lực sản xuất của Trung Quốc trong lĩnh vực này.

Nguồn: Tạp chí Diễn đàn doanh nghiệp

Chia sẻ bài viết qua mạng xã hội: