Báo cáo này là kết quả đánh giá định lượng của ERIA về tác động của Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN (ATIGA) đối với thương mại nội khối ASEAN. Nghiên cứu được thực hiện theo nhiệm vụ của Ủy ban Điều phối ASEAN về ATIGA (CCA) và với sự hỗ trợ của các Quốc gia Thành viên ASEAN, những người đã chia sẻ dữ liệu thương mại và thuế quan có liên quan. Việc đánh giá kết quả hoạt động của ATIGA được thực hiện thông qua phân tích mô tả về tự do hóa thuế quan; kiểm tra khoảng ưu đãi (MOP) giữa thuế quan ATIGA và Tối huệ quốc (MFN) và tỷ lệ sử dụng ATIGA; và phân tích kinh tế lượng bằng cách sử dụng mô hình trọng lực. Do hậu quả trực tiếp của ATIGA, thuế quan đối với thương mại nội khối ASEAN đã được giảm xuống 0 đối với hầu hết các dòng thuế. Tuy nhiên, chỉ một nhóm nhỏ trong số các dòng thuế này đưa ra biên độ ưu đãi đủ cao để khuyến khích các công ty sử dụng ATIGA khi giao dịch trong ASEAN. Hơn nữa, chi phí tuân thủ các điều khoản ATIGA làm giảm khả năng sử dụng khi MOP thấp. Vì những lý do này, tác động của ATIGA chỉ giới hạn ở một số ngành và sản phẩm mà MOP vẫn ở mức cao (do thuế MFN cao). Hơn nữa, đánh giá hiệu quả của ATIGA bằng cách xem xét sự tăng trưởng tương đối của thương mại nội khối ASEAN nói chung là không chính xác do sự phụ thuộc của AMS vào nhập khẩu từ các nước không thuộc AMS, đặc biệt là Trung Quốc và Nhật Bản, trong hoạt động nhập khẩu của họ, và sự sẵn có của nhiều mặt hàng khác các ưu đãi như các FTA ASEAN Plus One.
Phân tích định lượng cho thấy rằng tỷ lệ sử dụng ATIGA, được định nghĩa là tỷ lệ phần trăm nhập khẩu theo ưu đãi ATIGA trong tổng số hàng nhập khẩu có MOP dương, đang tăng lên đối với những sản phẩm và lĩnh vực mà thuế MFN vẫn ở mức cao. Chúng bao gồm các lĩnh vực nông nghiệp và ô tô. Các ước tính trọng lực được thực hiện ở cấp sản phẩm (mã HS 3 số) cho thấy chỉ một số ít sản phẩm có hệ số dương trên ATIGA, cho thấy tác dụng gia tăng giao thương của ATIGA chỉ tác động vào một số ngành. Tuy nhiên, tác dụng gia tăng giao thương lớn hơn đối với các sản phẩm có tỷ lệ sử dụng ATIGA lớn hơn do MOP cao hơn. Các ngành tích hợp trọng điểm (PIS) lớn hơn mà việc sử dụng ATIGA đã tăng lên rõ rệt bao gồm nông nghiệp, nông nghiệp chế biến và ô tô.
Trong khi AMS tiếp tục đơn phương tự do hóa hơn nữa nền kinh tế của họ và khi các hiệp định đa phương mới (ví dụ: Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực RCEP) có hiệu lực, ATIGA cần được cập nhật để duy trì tính phù hợp. Trọng tâm chính của cải cách phải là giảm chi phí tuân thủ, trong số những thứ khác, bằng cách sửa đổi các quy tắc xuất xứ hoặc thủ tục cấp giấy chứng nhận xuất xứ. Điều này sẽ đảm bảo rằng ngay cả những tỷ suất lợi nhuận nhỏ do ATIGA cung cấp vẫn tiếp tục có giá trị đối với các nhà giao dịch. Hơn nữa, những lĩnh vực mà ATIGA có hiệu quả nhất do MOP cao là những lĩnh vực có sự tham gia của các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME). Vì vậy, ATIGA có thể tiếp tục là động lực quan trọng thúc đẩy sự tham gia của DNVVN trong thương mại nội khối ASEAN. Nhưng để đảm bảo ATIGA thành công trong việc làm như vậy, thông tin cụ thể về các rào cản đối với việc sử dụng ATIGA của các công ty này cần được thu thập và các vấn đề cơ bản cần được giải quyết.
Báo cáo chi tiết có thể tải dưới đây (tiếng Anh)
Tác động của Hiệp định Thương mại Hàng hóa ASEAN (ATIGA) đối với thương mại nội khối ASEAN
Chia sẻ bài viết qua mạng xã hội: